CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ
CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ

Trang chủ > Tin tức > Tin tức - sự kiện > Tuyên bố Chính trị của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về HIV và ...

Thứ Sáu, 29/03/2024 | 13:15:36 GMT+7

Tuyên bố Chính trị của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về HIV và AIDS

21/06/2021 | 5818 lượt xem | Kiều Trang

Trong ba ngày từ 8-10 tháng 6 năm 2021, tại New York, Hoa Kỳ, Phiên hợp cấp cao của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về HIV và AIDS đã diễn ra. Kết thúc phiên họp, các thành viên tham dự đã thông qua tuyên bố chính trị về HIV/AIDS với chủ đề “Chấm dứt các bất bình đẳng và Trở lại đúng hướng để kết thúc dịch bệnh AIDS vào năm 2030”.

Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn trích Tuyên bố Chính trị của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về HIV/AIDS năm 2021.

"Tuyên bố Chính trị về HIV và AIDS: Chấm dứt các bất bình đẳng và Trở lại đúng hướng nhằm chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030
1. Để đưa thế giới trở lại đúng hướng nhằm chấm dứt dịch bệnh AIDS để AIDS không còn là một mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng vào năm 2030 và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững, cụ thể là Mục tiêu số 3 về sức khỏe và có cuộc sống tốt, chúng tôi, những Nhà lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ cùng các đại diện Nhà nước và Chính phủ tập hợp tại Liên Hợp Quốc từ ngày 8 đến ngày 10/6/2021:
a.    Thương tiếc rằng hơn 75 triệu người đã nhiễm HIV và hơn 32 triệu người đã tử vong vì các bệnh liên quan đến AIDS kể từ khi bắt đầu vụ dịch;
b.    Bày tỏ mối quan ngại sâu sắc và lấy làm tiếc rằng cộng đồng quốc tế đã không đạt được các mục tiêu cho năm 2020 được đề ra trong Tuyên bố Chính trị 2016 về HIV và AIDS  mặc dù chúng ta đã có kiến thức và công cụ để ngăn ngừa tất cả các ca nhiễm HIV mới cũng như các ca tử vong do AIDS;
c.    Cam kết hành động khẩn cấp và mang tính đột phá để chấm dứt các bất bình đẳng về kinh tế, xã hội, chủng tộc và giới, các luật, chính sách và thực hành mang tính trừng phạt, sự kỳ thị và các hình thức phân biệt đối xử, bao gồm liên quan đến tình trạng nhiễm HIV, và các vi phạm quyền con người đã và đang kéo dài dịch bệnh AIDS;
d.    Cam kết mạnh mẽ thể hiện vai trò lãnh đạo lớn hơn và cùng nhau nỗ lực, thông qua hợp tác quốc tế, chủ nghĩa đa phương mới và sự tham gia có ý nghĩa của cộng đồng nhằm khẩn trương thúc đẩy hành động tập thể ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu hướng tới các dịch vụ dự phòng, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ toàn diện, tăng cường đầu tư trong nghiên cứu, phát triển, khoa học và sáng tạo để xây dựng một thế giới lành mạnh hơn cho tất cả mọi người, tận dụng cơ hội của thập kỷ hành động để hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững và đảm bảo không người dân nào bị bỏ lại phía sau, nỗ lực để những người đang tụt lại sau cùng được hưởng lợi trước tiên;
e.    Cam kết xây dựng lại tốt đẹp hơn, công bằng và bao trùm hơn từ đại dịch COVID-19 và những tác động bất lợi lên đáp ứng toàn cầu với HIV và AIDS, xây dựng khả năng chống chịu và phục hồi trước những đại dịch trong tương lai và những thách thức khác đối với y tế và phát triển toàn cầu, tiếp tục tận dụng những đầu tư và kinh nghiệm từ đáp ứng với HIV nhằm tăng cường đáp ứng y tế công cộng và các hệ thống y tế;
f.    Cam kết thực hiện hành động đáp ứng khẩn cấp với HIV trong năm năm tới theo sự  điều phối  toàn cầu dựa trên tinh thần đoàn kết quốc tế và chia sẻ trách nhiệm nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết trong Tuyên bố hiện tại, và khẩn trương xúc tiến việc sáng chế vắc-xin ngừa HIV và biện pháp chữa trị HIV, nhìn nhận rằng việc hoàn thành các cam kết này sẽ giảm số ca nhiễm HIV mới hàng năm xuống dưới 370.000 và số ca tử vong do AIDS hàng năm xuống dưới 250.000 vào năm 2025 và tạo bước tiến quan trọng hướng tới loại trừ mọi hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV.

Chấm dứt dịch bệnh AIDS là mục tiêu có thể đạt được, nhưng cần có hành động khẩn cấp
Để chấm dứt AIDS, chúng ta:
Tái khẳng định quyết tâm quốc tế

2.   Tái khẳng định Chương trình nghị sự đến năm 2030 vì Sự phát triển Bền vững , bao gồm Mục tiêu 3.3 về chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030, Chương trình Hành động Addis Ababa thống nhất tại Hội nghị Quốc tế lần thứ ba về Tài trợ cho Phát triển , cũng như Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Hành động , Chương trình Hành động thống nhất tại Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển  và kết quả từ các hội nghị rà soát việc thực hiện những chương trình hành động này, các tuyên bố Alma-Ata và Astana về Chăm sóc sức khỏe ban đầu và những công cụ, thỏa thuận liên quan khác, các kết quả và Chương trình Hành động của Liên Hợp Quốc;
3.    Tái khẳng định Tuyên bố Cam kết về Phòng, chống HIV/AIDS năm 2001 , 2006 , 2011  và Tuyên bố Chính trị năm 2016 về HIV và AIDS;
4.    Tái khẳng định Tuyên bố Chính trị tại Hội nghị cấp cao của Đại hội đồng về Phòng, chống Kháng kháng sinh , Tuyên bố Chính trị tại Hội nghị cấp cao của Đại hội đồng về Phòng, chống bệnh Lao , Tuyên bố Chính trị tại Hội nghị cấp cao lần thứ ba của Đại hội đồng về Phòng, chống các Bệnh không lây nhiễm , và Tuyên bố Chính trị tại Hội nghị cấp cao của Đại hội đồng về Chăm sóc Sức khỏe Toàn dân ;

5. Nhắc lại tất cả các nghị quyết và quyết định liên quan của Đại hội đồng, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Ủy ban về Vị thế của Phụ nữ và Đại hội đồng Y tế Thế giới;
6. Lưu ý về báo cáo của Tổng Thư ký với tiêu đề “Giải quyết các bất bình đẳng và trở lại đúng hướng để chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030”  và Chiến lược Phòng chống AIDS Toàn cầu giai đoạn 2021–2026, “Chấm dứt các bất bình đẳng. Chấm dứt AIDS”, của Chương trinh phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS);
7.    Tái khẳng định Tuyên bố phổ quát về quyền con người  và cam kết tôn trọng, thúc đẩy, bảo vệ và thực hiện đầy đủ các quyền con người, vốn mang tính phổ quát, không thể chia tách, có liên quan và phụ thuộc lẫn nhau, bao gồm trong bối cảnh đáp ứng với HIV và AIDS, đồng thời kêu gọi tất cả các chính sách và chương trình về HIV và AIDS đều cần tôn trọng đầy đủ các quyền con người và quyền tự do cơ bản, bao gồm quyền được phát triển của người dân;
8.    Tái khẳng định quyền của mọi người dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào, đều được sống trong trạng thái khỏe mạnh nhất cả về thể chất và tinh thần, và khẳng định rằng sự sẵn có, khả năng tiếp cận, có thể chấp nhận, có thể chi trả và chất lượng của các dịch vụ dự phòng HIV kết hợp, xét nghiệm, điều trị, chăm sóc và hỗ trợ, các dịch vụ y tế và xã hội bao gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, dịch vụ thông tin và giáo dục, không kỳ thị và phân biệt đối xử, đều là những yếu tố quan trọng để hiện thực hóa một cách đầy đủ quyền về sức khỏe này;
9.    Tái khẳng định cam kết đối với các quyền về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, theo tinh thần của Chương trinh Hành động thống nhất tại Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Hành động và kết quả của các hội nghị rà soát việc thực hiện các hành động cam kết, và tái khẳng định quyền của mọi người dân được sống trong trạng thái khỏe mạnh nhất cả về thể chất và tinh thần, bao gồm về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản;
10.  Tái khẳng định quyền tự chủ của các Quốc gia Thành viên, như được nêu trong   Hiến chương Liên Hợp Quốc, và sự cần thiết đối với tất cả các quốc gia phải thực hiện các cam kết và lời hứa trong Tuyên bố hiện tại, nhất quán với luật pháp quốc gia, các ưu tiên về phát triển của quốc gia và các quyền con người theo cam kết quốc tế;
11. Nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng về văn hóa, gia đình, đạo đức và tôn giáo, bao gồm vai trò quan trọng của các nhà lãnh đạo tôn giáo trong việc ngăn chặn sự lây lan toàn cầu của HIV cũng như trong điều trị HIV, chăm sóc và hỗ trợ; 
12. Nhận thức rằng việc chấm dứt dịch bệnh AIDS đòi hỏi phải chấm dứt tất cả các bất bình đẳng và thúc đẩy hành động đa ngành liên quan đến nhiều mục tiêu và chỉ tiêu khác về pPhát triển bền vững, và các hoạt động đáp ứng với HIV đang góp phần quan trọng vào việc hoàn thành Chương trình Nghị sự đến năm 2030 vì sự Phát triển Bền vững;
13. Đồng thời nhìn nhận rằng nghèo đói và tình trạng sức khỏe kém có mối liên hệ chặt chẽ, rằng nghèo đói có thể làm tăng nguy cơ tiến triển từ nhiễm HIV sang mắc AIDS do không tiếp cận được tới các dịch vụ chăm sóc và điều trị toàn diện cũng như thiếu dinh dưỡng và không có khả năng chi trả cho các dịch vụ điều trị, bao gồm các chi phí để đi lại;
14. Lưu ý rằng năm 2021 đánh dấu 40 năm kể từ khi phát hiện ca bệnh AIDS đầu tiên,  25 năm từ khi Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) bắt đầu công việc của mình trong vai trò một chương trình đa bên và đa ngành nhằm dẫn dắt những nỗ lực của hệ thống Liên Hợp Quốc đáp ứng với dịch bệnh AIDS trên phạm vi toàn cầu, và 20 năm kể từ Tuyên bố Cam kết mang tính bước ngoặt về Phòng, chống HIV/AIDS vào năm 2001 và quyết định thành lập Quỹ Toàn cầu phòng chống bệnh AIDS, Lao và Sốt rét;

Tiến bộ và những khoảng thiếu hụt

15. Bày tỏ quan ngại sâu sắc rằng dịch bệnh AIDS vẫn đang tiếp tục ảnh hưởng đến mọi khu vực trên toàn thế giới, tiếp tục là một tình trạng khẩn cấp toàn cầu và một thách thức lớn đối với y tế, phát triển, quyền con người, và xã hội;
16. Nhận thức rằng trong khi AIDS là một dịch bệnh toàn cầu với 38 triệu người đang sống với HIV, dịch HIV ở các quốc gia và khu vực khác nhau có những đặc điểm và yếu tố tác động khác nhau, và cần có các đáp ứng và can thiệp khác nhau để giải quyết;
17. Hoan nghênh và khuyến khích các nỗ lực ở cấp độ khu vực trong việc đưa ra các chỉ tiêu táo bạo cũng như các chiến lược mạnh mẽ để thực hiện các chỉ tiêu đầy hoài bão này trong phòng chống HIV và AIDS;
18. Nhắc lại với mối quan ngại sâu sắc rằng mặc dù châu Phi, đặc biệt là khu vực châu Phi hạ Sahara, là khu vực có những tiến bộ đáng kể nhất trong phòng chống HIV và AIDS, đây vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và cần có hành động khẩn cấp và đặc biệt ở tất cả các cấp để chặn đứng những tác động tàn phá của bệnh dịch, đặc biệt đối với phụ nữ, trẻ gái vị thành niên và trẻ em;
19. Bày tỏ quan ngại sâu sắc rằng ở thời điểm năm 2019 HIV và AIDS vẫn còn ảnh hưởng đến tất cả các khu vực trên toàn thế giới, hoan nghênh những bước tiến gần đây trong việc giảm số ca nhiễm HIV mới và số tử vong do AIDS ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Địa Trung Hải, Tây và Trung Âu và Bắc Mỹ, đồng thời lưu ý với sự quan ngại rằng dù đã đạt được một số tiến bộ, khu vực Địa Trung Hải tiếp tục có số hiện nhiễm HIV cao nhất ở ngoài khu vực châu Phi hạ Sahara, số nhiễm HIV mới đang gia tăng ở khu vực Đông Âu và Trung Á, châu Mỹ La-tinh, Trung Đông và Bắc Phi, và 90% số người mới nhiễm HIV chỉ tập trung ở 41 quốc gia;
20. Hoan nghênh những bước tiến đã đạt được kể từ Tuyên bố năm 2001, bao gồm giảm 54% số ca tử vong do AIDS và giảm 37% số nhiễm HIV mới trên toàn cầu, giảm 68% trong lây truyền HIV từ mẹ sang con, đồng thời lưu ý và quan ngại rằng tiến độ đã chậm lại đáng kể từ năm 2016;
21. Bày tỏ sự quan ngại sâu sắc rằng nỗ lực giảm số nhiễm HIV chưa đạt được nhiều tiến bộ, với 1,7 triệu ca nhiễm mới năm 2019 so với mục tiêu toàn cầu là dưới 500.000 ca nhiễm mới vào năm 2020, và số nhiễm HIV mới đã gia tăng ở ít nhất 33 quốc gia kể từ năm 2016;
22. Lưu ý và quan ngại rằng các bất bình đẳng, dưới nhiều dạng thức và đa chiều, dù khác nhau theo từng bối cảnh quốc gia, có thể bao gồm những bất bình đẳng liên quan đến tình trạng nhiễm HIV, giới, chủng tộc, tình trạng khuyết tật, độ tuổi, mức thu nhập, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, sự khác biệt vùng miền, tình trạng di cư và bị giam giữ — và những yếu tố này thường cộng hưởng làm nghiêm trọng thêm các bất bình đẳng, và đã góp phần gây ra thất bại trong việc thực hiện các mục tiêu phòng chống HIV/AIDS toàn cầu vào năm 2020;
23. Lưu ý ở mức báo động rằng đại dịch COVID-19 đã làm trầm trọng thêm các bất bình đẳng đang tồn tại, gây ra những bước lùi hơn nữa trong đáp ứng với HIV và AIDS, và khiến các đáp ứng này, đặc biệt là tiếp cận tới thuốc, điều trị và chẩn đoán, bị chệch hướng hơn nữa, làm gia tăng những khác biệt không lành mạnh trong một thế giới bất bình đẳng sâu sắc và phơi bày những nguy cơ do tình trạng đầu tư không đầy đủ cho y tế công cộng, các hệ thống y tế và các dịch vụ công thiết yếu khác cho mọi người dân và khả năng sẵn sàng ứng phó với các đại dịch;
24. Hoan nghênh những nỗ lực gần đây của các quốc gia trong việc xây dựng và triển khai các công cụ hỗ trợ về mặt xã hội, bao gồm các luật và chính sách tạo điều kiện thuận lợi, các chiến dịch giáo dục công chúng và tập huấn chống kỳ thị cho cán bộ y tế và nhân viên thực thi pháp luật nhằm loại bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn tồn tại xung quanh HIV, trao quyền để phụ nữ và trẻ em gái thực hiện các quyền về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, theo đúng tinh thần Chương trinh Hành động thống nhất tại Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển và kết quả của những hội nghị rà soát tiến độ thực hiện các hành động cam kết, và chấm dứt tình trạng lề hóa những người sống với HIV và người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV;
25. Lưu ý rằng mỗi quốc gia cần dựa vào bối cảnh dịch HIV tại quốc gia mình để xác định các nhóm quần thể có vai trò chủ chốt trong phòng chống dịch, và lưu ý với sự quan ngại rằng, dữ liệu dịch tễ học toàn cầu cho thấy các nhóm quần thể chủ chốt/quần thể đích có nguy cơ cao hơn dân số chung trong lây nhiễm HIV cũng như lây truyền HIV, bao gồm người sống với HIV, người nam có quan hệ tình dục đồng giới với nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn 26 lần, người tiêm chích ma túy với nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn 29 lần, phụ nữ bán dâm với nguy cơ nhiễm HIV cao hơn 30 lần, người chuyển giới với nguy cơ nhiễm HIV cao hơn 13 lần, và những người trong trại giam và các cơ sở khép kín khác với tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao hơn 6 lần so với dân số nói chung, lưu ý them cũng với sự quan ngại rằng các nhóm quần thể đích và bạn tình của họ chiếm 62% số nhiễm HIV mới trên toàn cầu và 98% số nhiễm HIV mới ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, 60% ở khu vực Đại Trung Hải, 99% ở Đông Âu và Trung Á, 28% ở Đông và Nam Phi, 77% ở châu Mỹ La tinh, 97% ở Trung Đông và Bắc Phi, 69% ở Tây và Trung Phi, và 96% ở Tây và Trung Âu và Bắc Mỹ;
26. Lưu ý rằng, tùy thuộc vào tình hình dịch tễ học và bối cảnh xã hội của một quốc gia cụ thể, các nhóm quần thể khác có thể có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn dân số chung, bao gồm phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên và bạn tình là nam giới của họ, thanh niên, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người bản địa, người sống trong nghèo đói, người di cư, người tị nạn, người bị di dời nội địa và những người ở trong tình trạng nhân đạo khẩn cấp, người phục vụ trong các lực lượng mặc đồng phục, người trong các tình huống nhân đạo, xung đột và hậu xung đột;
27. Bày tỏ mối quan ngại, rằng ở khu vực châu Phi hạ Sahara, cứ 6 ca nhiễm HIV mới ở trẻ vị thành niên trong độ tuổi 15-19 thì có 5 ca là trẻ em gái, rằng trẻ em gái vị thành niên và phụ nữ trẻ chiếm 24% số ca nhiễm HIV mặc dù nhóm này chỉ chiếm 10% dân số, và rằng AIDS là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 49;
    
28. Bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử, bạo hành và các luật và thực hành mang tính hạn chế và phân biệt đối xử với người sống với HIV, có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và chịu ảnh hưởng bởi HIV —bao gồm liên quan đến việc không công khai tình trạng nhiễm HIV, làm phơi nhiễm và lây truyền HIV—và các luật hạn chế di chuyển hoặc tiếp cận dịch vụ đối với người sống với HIV, có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và chịu ảnh hưởng bởi HIV,  bao  gồm các nhóm quần thể đích, thanh niên, phụ nữ và trẻ em gái trong các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, và lấy làm tiếc về các hành động bạo lực và phân biệt đối xử đối với những nhóm quần thể này ở tất cả các vùng miền trên thế giới;
29. Nhận thức rằng bạo lực tình dục và bạo lực trên cơ sở giới, bao gồm bạo lực từ bạn tình lâu dài, vị thế kinh tế xã hội bất lợi của phụ nữ, những rào cản mang tính cấu trúc đối với việc trao quyền kinh tế cho phụ nữ và việc không được bảo vệ đầy đủ các quyền về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, theo đúng tinh thần của Chương trinh Hành động thống nhất tại  Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển, Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Hành động và kết quả của các hội nghị rà soát tiến độ thực hiện các hành động cam kết, làm giảm khả năng của phụ nữ và trẻ em gái trong việc tự bảo vệ bản thân khỏi bị nhiễm HIV và làm trầm trọng thêm tác động của dịch bệnh AIDS;
30. Lưu ý với sự quan ngại sâu sắc rằng các quyền và nhu cầu toàn diện của người sống với HIV, có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và chịu ảnh hưởng bởi HIV, phụ nữ và thanh thiếu niên, vẫn còn chưa được đáp ứng đầy đủ do thiếu sự lồng ghép trong các dịch vụ y tế, bao gồm dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản và các dịch vụ phòng, chống HIV, bao gồm cho những người bị bạo hành tình dục và bạo hành trên cơ sở giới, gồm điều trị dự phòng HIV trước phơi nhiễm (PrEP), các dịch vụ về pháp lý và bảo trợ xã hội;

32. Lưu ý với sự quan ngại rằng trên toàn thế giới, thanh thiếu niên vẫn là nhóm chịu ảnh hưởng nặng nề hơn bởi HIV, rằng nhận thức, kiến thức của thanh thiếu niên về HIV và AIDS và tiếp cận, tiếp nhận của nhóm này đối với các dịch vụ phòng, chống HIV vẫn ở mức thấp đáng báo động, việc sử dụng bao cao su đang giảm xuống và rằng thanh thiếu niên, dù chỉ chiếm 16% dân số toàn cầu nhưng chiếm 28% số ca nhiễm HIV mới, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải tạo môi trường trong đó việc lan truyền các thông tin thiếu khoa học về HIV, bao gồm chối bỏ HIV, không được chấp nhận;
33. Lưu ý ở mức báo động rằng năm 2019 có 150.000 trẻ em sinh ra bị nhiễm HIV, so với mục tiêu đặt ra cho năm 2020 là 20.000, và vẫn còn 850.000 trẻ em sống với HIV chưa được điều trị, một phần do độ bao phủ dịch vụ chẩn đoán HIV sớm ở trẻ sơ sinh còn hạn hẹp cũng như thiếu các lựa chọn về xét nghiệm HIV dành cho trẻ lớn hơn bị lây nhiễm trong giai đoạn bú sữa mẹ, và vì thế có tới 47% trẻ em sống với HIV trên toàn cầu—hai phần ba trong số đó từ 5 tuổi trở lên—chưa được điều trị để kéo dài cuộc sống, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển, như là hậu quả của các rào cản trong tiếp cận dịch vụ mang tính cấu trúc và xã hội mà những người trưởng thành sống với HIV gặp phải, ngoài những rào cản đặc thù theo độ tuổi, bao gồm tỷ lệ chẩn đoán thấp, nỗ lực tìm ca còn yếu và thiếu bên ngoài cơ sở và dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, chuyển gửi trẻ em đến điều trị chưa tốt, số lượng các công thức thuốc kháng vi-rút hiệu quả và dễ sử dụng dành cho trẻ em còn ít và chưa dễ tiếp cận ở một số khu vực và quốc gia, tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử, và việc thiếu dịch vụ bảo trợ xã hội phù hợp dành cho trẻ em và người chăm sóc trẻ;
34. Lưu ý rằng, nhờ tiếp cận nhiều hơn đến điều trị kháng vi-rút, số người sống với HIV có tuổi thọ tăng cao đang ngày một nhiều hơn, đồng thời cũng lưu ý với sự quan ngại, rằng người cao tuổi sống với HIV có thể đối mặt với nhiều thách thức, như kỳ thị và phân biệt đối xử trong các cơ sở y tế, tiếp cận và duy trì điều trị, và có nguy cơ cao hơn mắc các bệnh không lây nhiễm và các bệnh đồng mắc khác, bao gồm các vấn đề về sức khỏe tâm trí;
35. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ, bao gồm khoa học y sinh và lâm sàng, khoa học xã hội và hành vi, và khoa học chính trị và kinh tế, cũng như các biện pháp tiếp cận dựa trên bằng chứng trong việc định hình và đẩy nhanh đáp ứng với HIV;
36. Nhấn mạnh rằng dự phòng HIV kết hợp là nền tảng cho đáp ứng hiệu quả với HIV và tùy theo đặc điểm dịch tễ của quốc gia và khu vực mà bao gồm các biện pháp can thiệp dựa trên bằng chứng sau: bao cao su và chất bôi trơn cho nam và nữ, điều trị với mục đích dự phòng (TasP), điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP), điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV (PEP), tự nguyện cắt bao quy đầu (VMMC), can thiệp giảm hại  theo qui định của pháp luật quốc gia, giáo dục giới tính và tình dục toàn diện phù hợp với lứa tuổi trong và ngoài trường học, sàng lọc và điều trị các nhiễm trùng lây qua đường tình dục, giáo dục trung học có chất lượng, nâng cao vị thế kinh tế, các quyền về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới, giảm nghèo và an ninh lương thực, và an toàn máu;
37. Lưu ý với sự quan ngại rằng phần lớn các quốc gia và khu vực đều chưa đạt được bước tiến đáng kể trong việc mở rộng các chương trinh can thiệp giảm hại, theo luật pháp quốc gia, cũng như trong mở rộng điều trị kháng vi-rút và các can thiệp khác để ngăn ngừa lây nhiễm HIV, viêm gan vi-rút và các bệnh lây qua đường máu khác liên quan đến sử dụng ma túy, đặc biệt là trong những người tiêm chích ma túy, và kêu gọi khẩn trương quan tâm đến độ bao phủ còn hạn chế của các chương trinh giảm hại và chương trinh điều trị rối loạn sử dụng chất có tác dụng hỗ trợ tuân thủ trong sử dụng các dịch vụ về HIV và ma túy, cũng như quan tâm đến tình trạng lề hóa và phân biệt đối xử với người sử dụng ma túy đặc biệt là người tiêm chích ma túy thể hiện qua các bộ luật mang tính hạn chế, gây cản trở trong tiếp cận đến các dịch vụ phòng chống HIV, từ đó có hành động để bảo đảm khả năng tiếp cận và tiếp nhận đầy đủ các can thiệp như đã nêu, bao gồm trong các dịch vụ tiếp cận, dự phòng và điều trị, trong trại giam và các cơ sở khép kín khác, và thúc đẩy việc áp dụng  một cách phù hợp các hướng dẫn kỹ thuật do Tổ chức y tế thế giới, Cơ quan phòng, chống tội phạm và ma túy của Liên Hợp Quốc và Chương trinh phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS ban hành, đồng thời lưu ý với sự quan ngại rằng kỳ thị và phân biệt đối xử trên cơ sở giới và lứa tuổi thường tạo thêm rào cản trong tiếp cận và tiếp nhận các dịch vụ nêu trên đối với những phụ nữ và thanh thiếu niên sử dụng ma túy, đặc biệt là tiêm chích ma túy.
38. Khen ngợi những tiến bộ đã đạt được trong các hoạt động nghiên cứu, phát triển và tính hiệu quả đã được chứng minh của các biện pháp can thiệp sáng tạo, bao gồm những bước tiến mới trong điều trị để dự phòng (TasP), điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV(PrEP), thuốc kháng vi-rút có tác động kéo dài dùng trong dự phòng và điều trị, thuốc khử vi-rút trên nền tảng thuốc kháng virut và các lựa chọn khác về dự phòng mà phụ nữ có thể chủ động khởi xướng để làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, như vòng âm đạo và nhiều sáng kiến khác đang được tiến hành để xác định và xử lý mối đe dọa từ tình trạng kháng thuốc liên quan đến HIV và các bệnh liên quan, các bệnh đồng mắc và bệnh đồng nhiễm, đặc biệt là bệnh lao;
39. Hoan nghênh những bằng chứng khoa học gần đây về lợi ích trong dự phòng lây nhiễm HIV của liệu pháp điều trị kháng vi-rút, cho thấy không có lây truyền HIV qua quan hệ tình dục trong các cặp đôi trưởng thành khi người sống với HIV trong cặp bạn tình có tham gia điều trị kháng vi-rút, duy trì và đạt hiệu quả trong điều trị, với lượng vi-rút trong máu được ức chế dưới ngưỡng phát hiện, và được định kỳ kiểm tra và khẳng định theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới trong hướng dẫn chuyên môn bản cập nhật năm 2021, được biết đến với tên gọi Không phát hiện = Không lây truyền (K=K), đồng thời ghi nhận sự cần thiết phải tiếp tục có nghiên cứu sâu hơn;
40. Khen ngợi tiến bộ đã đạt được ở nhiều khu vực trên thế giới trong các nghiên cứu hành động dẫn tới việc nhanh chóng mở rộng ở phạm vi lớn dịch vụ điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc kháng vi-rút (PrEP) và điều trị dự phòng sau phơi nhiễm HIV (PEP), cùng với Điều trị để Dự phòng, đã mang lại kết quả giảm nhanh số ca nhiễm HIV mới ở các khu vực này;
41. Hoan nghênh đã có hơn 26 triệu người sống với HIV hiện đang được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút—con số tăng hơn gấp ba lần so với năm 2010—nhưng lưu ý rằng vẫn còn 12 triệu người sống với HIV chưa được điều trị, đặc biệt là ở châu Phi, và 12 triệu người này chưa tiếp cận được tới điều trị HIV là do các bất bình đẳng, nhiều hình thức phân biệt đối xử đan xen và những rào cản mang tính cấu trúc;
42. Tái khẳng định rằng tiếp cận tới các loại thuốc và vật phẩm an toàn, hiệu quả, phù hợp và có giá hợp lý cho tất cả mọi người, không phân biệt đối xử, là mấu chốt để hiện thực hóa đầy đủ quyền của mọi người dân được sống trong trạng thái tốt nhất có thể cả về sức khỏe thể chất và tinh thần, đồng thời lưu ý với sự quan ngại sâu sắc rằng vẫn còn nhiều người không tiếp cận được thuốc điều trị và tính bền vững của các chương trinh điều trị an toàn, hiệu quả, có thể chi trả được trong suốt cuộc đời vẫn tiếp tục bị tác động bởi các yếu tố như đói nghèo, và nhấn mạnh rằng tiếp cận thuốc điều trị có thể cứu sống hàng triệu người; 
43. Lưu ý rằng bệnh lao vẫn là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở những người sống với HIV và mới có chưa đến một nửa số người sống với HIV mắc lao được chẩn đoán và điều trị thích hợp, đồng thời lưu ý sự cần thiết phải tăng nguồn tài chính dành cho nghiên cứu và phát triển các công cụ mới để dự phòng, chẩn đoán và điều trị lao, bao gồm cho thể lao đa kháng thuốc cho người sống với HIV cũng như trong bối cảnh đại dịch COVID-19;

Triển khai hiệu quả dự phòng HIV kết hợp
60. Cam kết ưu tiên hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV và đảm bảo đến năm 2025 đạt 95% những người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV, bao gồm trong từng nhóm dân số, nhóm tuổi và khu vực địa lý có ý nghĩa dịch tễ học, được tiếp cận và sử dụng các phương pháp dự phòng lây nhiễm HIV kết hợp lấy con người làm trọng tâm, phù hợp với nhu cầu, hiệu quả và được ưu tiên cung cấp dịch vụ thông qua:
a)  Tăng cường vai trò chủ động và lãnh đạo của quốc gia, phân bổ nguồn lực và áp dụng các biện pháp tạo điều kiện khác đối với các can thiệp dự phòng kết hợp dựa trên bằng chứng, bao gồm quảng bá và phân phối bao cao su, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, cắt bao quy đầu tự nguyện, can thiệp giảm hại theo qui định của luật pháp quốc gia,  các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản, gồm khám sàng lọc và điều trị các nhiễm trùng lây qua đường tình dục, môi trường chính sách, pháp luật thuận lợi, tiếp cận đầy đủ đến thông tin và giáo dục toàn diện, được triển khai cả trong và ngoài trường học;

b)  Triển khai các cách tiếp cận đặc thù về dự phòng kết hợp để đáp ứng các nhu cầu đa dạng về dự phòng HIV của các nhóm quần thể đích, bao gồm của người bán dâm, người nam có quan hệ tình dục đồng giới, người tiêm chích ma túy, người chuyển giới, những người trong trại giam và các cơ sở khép kín khác, và tất cả những người sống với HIV;
c)  Đến năm 2025, bảo đảm sự sẵn có của dịch vụ dự phòng trước phơi nhiễm HIV cho những người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV, và bảo đảm dịch vụ dự phòng sau phơi nhiễm cho những người mới bị phơi nhiễm với HIV;
d)    Sử dụng dữ liệu dịch tễ học quốc gia để xác định các nhóm ưu tiên có nguy cơ phơi nhiễm với HIV cao hơn và hợp tác với họ để thiết kế và cung cấp các dịch vụ dự phòng HIV toàn diện; các nhóm này có thể bao gồm phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên và bạn tình nam giới của họ, thanh niên, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người bản địa, các cộng đồng, người sống trong cảnh nghèo đói, người di cư, người tị nạn, người bị buộc phải di dời nội địa, nam giới và phụ nữ trong các lực lượng mặc đồng phục, người trong các khu vực đang có tình trạng nhân đạo khẩn cấp, trong hoàn cảnh xung đột và hậu xung đột;
e)  Cung cấp các dịch vụ tích hợp nhằm phòng ngừa lây nhiễm HIV, các bệnh đồng mắc và đồng nhiễm, các nhiễm trùng lây qua đường tình dục và mang thai ngoài ý muốn ở trẻ em gái vị thành niên và phụ nữ trong các tình huống và hoàn cảnh đa dạng, bao gồm nhanh chóng mở rộng các dịch vụ này trong trẻ em gái vị thành niên và phụ nữ trẻ ở khu vực châu Phi hạ Sahara, kết hợp với những nỗ lực nhằm đảm bảo quyền của trẻ em gái được hoàn thành giáo dục trung học có chất lượng, chấm dứt tất cả các thực hành gây hại như kết hôn với trẻ em, kết hôn sớm và cưỡng ép kết hôn và hủ tục cắt bỏ âm vật, bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện đầy đủ các quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái bao gồm quyền về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, theo đúng tinh thần của Chương trình Hành động thống nhất tại Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển, Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh hành động, cùng kết quả của các hội nghị rà soát tiến độ thực hiện các hành động cam kết, bảo đảm rằng tất cả phụ nữ đều có thể thực hành quyền quyền tự chủ về cơ thể, và tự do trong việc ra quyết định một cách có trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến tính dục, bao gồm sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản của bản thân, không bị ép buộc, phân biệt đối xử và bạo hành, nhằm tăng khả năng của phụ nữ trong việc dự phòng lây nhiễm HIV, tăng tính tự chủ về kinh tế của phụ nữ, và đưa ra các biện pháp can thiệp nhằm thay đổi các khuôn mẫu về giới tạo và giải quyết các chuẩn mực xã hội tiêu cực;
f)  Tăng cường vai trò của ngành giáo dục là cánh cửa mở ra tiếp cận tới kiến thức và nhận thức về HIV, cũng như tới dự phòng, xét nghiệm và điều trị HIV, giúp chấm dứt kỳ thị và phân biệt đối xử, bên cạnh vai trò của giáo dục trong việc giải quyết các yếu tố về kinh tế, xã hội và mang tính cấu trúc tạo ra các bất bình đẳng và làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm HIV;
g)    Cam kết đẩy nhanh nỗ lực mở rộng các hoạt động giáo dục mang tính toàn diện, chính xác về khoa học và phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với bối cảnh văn hóa, nhằm cung cấp cho trẻ gái và trẻ trai vị thành niên, nam và nữ thanh niên, ở trong và ngoài trường học, phù hợp với năng lực của họ trong từng giai đoạn nhất định, những thông tin về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, dự phòng lây nhiễm HIV, bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ, các quyền con người, sự phát triển về thể chất và tâm sinh lý trong tuổi dậy thì, và tương quan sức mạnh trong các mối quan hệ giữa nam và nữ, nhằm giúp họ vun đắp lòng tự trọng, ra quyết định với đầy đủ thông tin, xây dựng các kỹ năng giao tiếp và giảm thiểu nguy cơ, và phát triển các mối quan hệ có sự tôn trọng, với sự tham gia của chính thanh niên, cha mẹ, người bảo trợ hợp pháp, người chăm sóc, những người làm giáo dục và người cung cấp dịch vụ y tế, nhằm thanh thiếu niên bảo vệ bản thân khỏi lây nhiễm HIV;
h)     Cân nhắc loại bỏ các rào cản mang tính cấu trúc, bao gồm các yêu cầu về sự đồng ý của vợ/chồng cho việc tiếp nhận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, và các dịch vụ dự phòng, xét nghiệm và điều trị HIV;
i)    Triển khai các chiến dịch nâng cao nhận thức của công chúng và giáo dục về HIV nhắm tới các đối tượng đích để nâng cao nhận thức chung về HIV;

Xét nghiệm, điều trị và ức chế HIV
61. Cam kết đạt được các mục tiêu 95–95–95 về xét nghiệm, điều trị và ức chế tải lượng HIV ở tất cả các nhóm dân số, các nhóm tuổi và khu vực địa lý, bao gồm ở trẻ em và người vị thành niên sống với HIV, đảm bảo rằng đến năm 2025 có ít nhất 34 triệu người sống với HIV tiếp cận được thuốc, điều trị và chẩn đoán bằng cách:
a)  Xây dựng các chiến lược xét nghiệm HIV đáp ứng nhu cầu đa dạng, sử dụng nhiều công nghệ và phương pháp xét nghiệm HIV hiệu quả, bao gồm chẩn đoán sớm cho trẻ sơ sinh ngay tại điểm cung cấp dịch vụ và tự xét nghiệm HIV, và nhanh chóng đưa vào điều trị những người được chẩn đoán nhiễm HIV ngay sau khi có kết quả chẩn đoán;
b)  Sử dụng các mô hình cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng để triển khai xét nghiệm và điều trị, bao gồm cung cấp dịch vụ trên nền tảng kỹ thuật số, cung cấp dịch vụ tại cộng đồng và do cộng đồng thực hiện để vượt qua những thách thức bao gồm thách thức trong bối cảnh đại dịch COVID-19, bằng cách cung cấp các dịch vụ điều trị, chăm sóc và hỗ trợ cho những người cần sử dụng dịch vụ phòng chống HIV nhiều nhất, ngay tại nơi họ sinh sống;
c)  Đạt được tiếp cận công bằng và đáng tin cậy tới các loại thuốc, phương pháp chẩn đoán, vật tư và công nghệ y tế chất lượng cao, an toàn, giá thành hợp lý và hiệu quả bằng cách đẩy nhanh quá trình phát triển và thâm nhập thị trường, giảm chi phí, tăng cường năng lực phát triển, sản xuất và phân phối của quốc gia, bao gồm thông qua việc điều chỉnh thống nhất các quy tắc thương mại và thương mại quốc tế theo hướng thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu y tế công cộng, cũng như khuyến khích phát triển các thị trường khu vực;
d)  Tạo sự sẵn có trong xét nghiệm tải lượng HIV và giám sát tải lượng HIV định kỳ một cách phù hợp theo hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới cho tất cả những người sống với HIV đang điều trị kháng vi-rút, bao gồm thông qua sử dụng xét nghiệm tải lượng tại điểm cung cấp dịch vụ để có kết quả ngay khi kết thúc chuyến thăm khám định kỳ.
e)    Bảo đảm rằng các nhu cầu của người sống với HIV nhiều tuổi được đáp ứng thông qua các dịch vụ y tế sẵn có, tiếp cận được, chấp nhận được, công bằng, có giá hợp lý và chất lượng, cùng với các dịch vụ liên quan khác, được cung cấp theo cách không phân biệt đối xử, hỗ trợ tính tự lập và giao tiếp xã hội, hỗ trợ cho sức khỏe và cuộc sống tốt, bao gồm cả về sức khỏe tâm trí, giúp tuân thủ điều trị HIV và dự phòng và điều trị các bệnh đồng mắc và bệnh đồng nhiễm;
f)    Mở rộng khả năng tiếp cận tới các công nghệ mới nhất về dự phòng, sàng lọc, chẩn đoán, điều trị và tiêm ngừa lao, đảm bảo đến năm 2025 đạt 90% người sống với HIV được tiếp nhận điều trị dự phòng lao, và giảm 80% số người tử vong do lao ở người sống với HIV (so với số liệu của năm 2010);

Thực hiện quyền con người và xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử
65. Cam kết xóa bỏ tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV, và tôn trọng, bảo vệ và thực hiện đầy đủ các quyền con người của người sống với HIV, người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV, thông qua đầu tư nguồn lực cụ thể và xây dựng các hướng dẫn và tập huấn cho người cung cấp dịch vụ y tế, bằng cách:
a)    Tạo môi trường pháp lý thuận lợi thông qua việc rà soát và cải tổ các luật và chính sách mang tính hạn chế, bao gồm các luật và thực hành mang tính phân biệt đối xử gây cản trở cho đáp ứng hiệu quả với HIV hoặc làm nặng thêm tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử -- như các qui định luật pháp hạn chế độ tuổi được tự nguyện đồng thuận sử dụng dịch vụ, qui định luật pháp liên quan đến việc không tiết lộ tình trạng nhiễm HIV, phơi nhiễm với HIV và làm lây truyền HIV, những quy định luật pháp áp đặt hạn chế đi lại và xét nghiệm bắt buộc liên quan đến HIV, và các qui định luật pháp mang tính đối xử không công bằng với người sống với HIV, người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV -- với mục đích đảm bảo rằng đến năm 2025 chỉ còn dưới 10% quốc gia có môi trường pháp lý và chính sách mang tính hạn chế dẫn tới việc từ chối hoặc hạn chế tiếp cận các dịch vụ;
b)    Thông qua và thực thi luật pháp, chính sách và các thực hành ngăn chặn bạo lực và các hình thức vi phạm quyền khác đối với người

Mời Quý độc giả đọc Toàn văn Tuyên bố chính trị về HIV/AIDS Tại đây