Giới tính sinh học: Chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ. Nói đến giới tính sinh học (biological sex/sex), chúng ta hiểu cụm từ này ý chỉ cơ thể của một người cùng những đặc điểm sinh học về giới của người đó như bộ phận sinh dục (dương vật, âm hộ, âm đạo…), nhiễm sắc thể quy định giới tính và cơ quan sinh sản bên trong cơ thể (tinh hoàn, buồng trứng…).
Với hầu hết mọi người, các đặc điểm sinh học về giới tính luôn được chia thành hai nhóm là nam và nữ. Tuy nhiên, trái với nhầm tưởng của số đông, trạng thái liên giới tính (intersex) vẫn được tìm thấy ở nhiều loài trong tự nhiên, kể cả con người. Liên giới tính là trạng thái mà một cá nhân bẩm sinh đã có kết cấu cơ quan sinh sản hoặc bộ phận sinh dục không hoàn toàn thuộc về đặc điểm sinh học của nam hay nữ theo cách hiểu thông thường.
Giới hoặc giới tính xã hội (giới): Giới (Gender) là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Nói cách khác, giới được thể hiện thông qua các hành vi được hình thành từ sự dạy dỗ và thu nhận từ gia đình, cộng đồng và xã hội, là vị trí, vai trò của nam và nữ mà xã hội mong muốn, kỳ vọng ở phụ nữ và nam giới liên quan đến các đặc điểm và năng lực nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một phụ nữ (hoặc trẻ em trai, trẻ em gái) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định.
Chẳng hạn như phụ nữ làm nội trợ, thêu thùa, chăm sóc con cái, nam giới xây dựng nhà cửa, làm kinh tế, chính trị,… Những hành vi này không phải là hành vi hay kỹ năng bẩm sinh mà do họ được xã hội, gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm việc đó vì xã hội cho rằng như vậy là phù hợp với thiên chức phụ nữ hoặc nam giới.
Bản dạng giới: Bản dạng giới (gender identity) đại diện cho những suy nghĩ bên trong bạn về giới tính của mình, là cách bạn nhận thức bản thân (nam hay nữ) và muốn được người khác xưng hô thế nào. Với một số người, giới tính mà họ cảm nhận ở bản thân không trùng khớp với giới tính sinh học của họ. Giới tính một cá nhân cảm nhận về bản thân được gọi là bản dạng giới.
Như đã nói, có những người cảm nhận họ không thuộc về giới tính sinh học như lúc sinh ra, do đó bản dạng giới là khái niệm tách biệt với giới tính sinh học. Nếu có bản dạng giới và giới tính sinh học trùng khớp với nhau, bạn thuộc về số đông của nhân loại – những người rất ít khi nghĩ về sự tương thích giữa bản dạng giới và giới tính sinh học của mình, hay có thể còn chưa nghe nói đến khái niệm bản dạng giới bao giờ, bởi bạn luôn được xã hội nhìn nhận là bình thường. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng sở dĩ bạn được xem là bình thường không phải bởi giới tính sinh học và bản dạng giới trùng khớp nhau mới là đúng hay mặc định, mà chỉ đơn giản vì điều này phổ biến ở đa số mọi người.
Trong khi đó, một số nhỏ những cá nhân khác ngay từ khi còn rất bé đã nhận ra cơ thể mình không khớp với giới tính mà họ cảm nhận trong tâm trí. Bên cạnh đó, cũng có những người đến tuổi dậy thì, khi đã trưởng thành hay thậm chí ở ngưỡng trung niên mới nhận ra bản dạng giới của mình khác với giới tính sinh học. Chúng ta gọi họ là người chuyển giới/xuyên giới (transgender).
Thông thường, người chuyển giới được dùng để chỉ người sinh ra trong cơ thể nam giới (tức giới tính sinh học là nam) nhưng giới tính họ cảm nhận là nữ (bản dạng giới là nữ); hoặc ngược lại, người sinh ra trong cơ thể nữ giới (giới tính sinh học là nữ) nhưng giới tính họ cảm nhận là nam (bản dạng giới là nam).
Biểu hiện giới: Biểu hiện giới (Gender expression) là cách chúng ta chọn thể hiện ra bên ngoài với mục đích cho biết giới tính hay bản dạng giới của bản thân mình với xung quanh. Cách thể hiện giới thường bao gồm ngoại hình và hành vi bên ngoài, chẳng hạn như cách ăn mặc, trang điểm, kiểu tóc, ngôn ngữ cơ thể, giọng nói và tên gọi. Nếu quan sát kỹ, bạn sẽ thấy xã hội luôn gắn những kỳ vọng ngầm hoặc rõ rệt trong việc thể hiện giới của nam và nữ ở gần như mọi mặt cuộc sống. Đến cả những đứa trẻ cũng ý thức rất rõ những lựa chọn trong phạm vi giới tính mà chúng được cho phép, như đồ chơi, màu sắc, quần áo, hay các hoạt động và trò chơi…
Thông thường, con gái hoặc phụ nữ có thể hiện mạnh mẽ theo hướng nam tính hay được gọi là tomboy hoặc cá tính. Tuy nhiên, cũng còn tùy thuộc vào hoàn cảnh, văn hóa, môi trường sống cũng như mức độ vượt khỏi khuôn khổ về giới đến đâu mà thể hiện tomboy/cá tính có thể được đón nhận tích cực, trung lập hay tiêu cực. Chẳng hạn, một cô gái cắt tóc ngắn, mặc đồ phong cách mạnh mẽ và mê chơi game có thể được xem là “cô nàng tomboy đáng yêu”, nhưng trong một hoàn cảnh khác hay một mức độ khác lại có thể bị gọi là “ô môi”, “dị hợm”.
Với các bé trai và nam giới có thể hiện khác với những quy chuẩn được kỳ vọng, xã hội thường dành một thái độ gay gắt và khó chấp nhận hơn hẳn. Những từ được dùng để gọi họ mang nghĩa bài xích, khinh thường hoặc đôi khi thù nghịch, như “bóng”, “ẻo lả”, “bê đê”, v.v..
Xu hướng tính dục: Xu hướng tính dục (sexual orientation) là một tập hợp những cảm giác thu hút về mặt cảm xúc, cơ thể và/hoặc tình cảm của một cá nhân đối với người khác.
Một người có thể yêu người khác giới, yêu người cùng giới, yêu cả hai giới, yêu nhiều giới ngoài nam và nữ, chỉ yêu nhưng không có hấp dẫn tình dục, hoặc không yêu lẫn không có hấp dẫn tình dục với bất kì giới nào. Theo đó, bạn có thể xác định mình là người dị tính (heterosexual), đồng tính (homosexual), song tính (bisexual), toàn tính (pansexual), vô tính (asexual)… hay chọn dùng bất kỳ tên gọi hoặc thuật ngữ nào khác mà bạn cho rằng sẽ phản ánh đúng nhất xu hướng tính dục của mình. Nhìn hàng loạt những tên gọi trên đây, hẳn bạn cũng đã thấy xu hướng tính dục của con người là rất đa dạng, vì vậy không thể được đặt trong giới hạn của sự phân chia duy nhất giữa đồng tính và dị tính.
Cũng giống như bản dạng giới, xu hướng tính dục là một yếu tố ăn sâu trong nhận thức mỗi người. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, trẻ em có thể đã nhận ra xu hướng tính dục của mình ngay từ những năm tiểu học, tuy nhiên phần lớn thường đợi đến trung học mới bắt đầu công khai.
Sự khác biệt quan trọng trong truyền thông cần lưu ý
Nam quan hệ tình dục đồng giới (viết tắt là MSM từ tiếng Anh: Men who have sex with men hoặc males who have sex with males) là một khái niệm để nhấn mạnh đến hành vi của những người nam có quan hệ tình dục với những người nam khác bất kể bản dạng giới (gender identity) hoặc xu hướng tính dục (sexual orientation) của người đó là gì.
Cụm từ “Nam quan hệ tình dục với nam” lần đầu được sử dụng trong cộng đồng những người làm việc y tế công cộng vào những năm 1990 bởi vì hành vi này, dù ở người có xu hướng tính dục đồng tính hoặc có xu hướng tính dục khác, được phát hiện là có liên quan đến một số vấn đề y tế công cộng, nhất là với nguy cơ lây nhiễm HIV.
Lý do khiến khái niệm MSM được sử dụng rộng rãi trong dịch tễ học là do hành vi người nam có quan hệ tình dục với người nam mới là hành vi đáng quan tâm về mặt phòng ngừa và giám sát bệnh tật chứ không phải là người đó là đồng tính hay dị tính. Do vậy, nên mô tả con người qua hành vi hơn là khuynh hướng tình dục của họ.
Một người MSM là người có giới tính sinh học là nam giới nhưng có thể có bản dạng giới là nam hoặc là nữ. Người nam có bản dạng giới là nữ có thể có hoặc không có biểu hiện giới là nữ, có nghĩa là có thể ăn mặc như là một người nam hoặc trang điểm, ăn mặc như một người nữ.
MSM có thể có nhiều xu hướng tính dục khác nhau như đồng tính nam (đồng tính luyến ái nam), song tính, toàn tính, dị tính hoặc vô tính. Tuy nhiên, phần lớn MSM là người xu hướng tính dục đồng giới. Bởi vì một người nam giới (có nghĩa là có giới tính sinh học là nam) nhưng có sự hấp dẫn tình dục với một người nam giới khác nên mới có hành vi tình dục với người nam. Trong số này những người đồng tính nam có người có bản dạng giới là nam và biểu hiện giới là nam nhưng cũng có người có bản dạng giới là nữ nhưng vẫn có biểu hiện giới tính là nam.
Ngoài ra, còn có MSM có xu hướng tính dục là song tính hay toàn tính nghĩa là họ vẫn có tình yêu với một người nữ nhưng vẫn có tình yêu với một hoặc nhiều người nam giới khác. Những người này sẽ giao hợp với cả người nam hay nữ trong các hoàn cảnh thích hợp và sẽ có các nguy cơ bị lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền đường tình dục tương tự như các người MSM đồng tính.
Trong nhóm MSM vẫn có người nam dị tính, có thể chỉ yêu, có tình cảm và thu hút tình dục với người nữ nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với một người nam khác do bị ép buộc, do bán dâm hay tò mò. Thậm chí, trong nhóm MSM có những người nam vô tính luyến ái nghĩa là không thích cả nam giới và nữ giới nhưng vẫn có thể có quan hệ tình dục với người nam khác do áp lực của nhóm hoặc do lao động tình dục.
Như vậy, MSM có thể có bản dạng giới và xu hướng tính dục đa dạng. MSM và đồng tính nam là hai khái niệm thuộc các phạm trù khác nhau. MSM nhằm để chỉ về hoạt động tình dục giữa những người nam bất kể xu hướng tính dục của họ. Trong khi đó đồng tính nam là một khái niệm chỉ về xu hướng tính dục và người đồng tính nam có thể có hay không hành vi quan hệ tình dục với người nam (nhiều người nam có xu hướng tính dục đồng tính, có sự thu hút tình dục với người nam khác nhưng chưa bao giờ giao hợp với một người nam khác). Điểm khác biệt này đặc biệt quan trọng trong truyền thông bởi nếu đồng nhất MSM với đồng tính nam và chỉ xây dựng các thông điệp truyền thông hướng tới và chỉ tiếp cận đến nhóm đồng tính nam thì sẽ bỏ qua nhiều thành phần quan trọng trong nhóm MSM.