CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ
CỤC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS - BỘ Y TẾ

Trang chủ > Chuyên trang > Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm HIV (PrEP) > Tin tức - Sự kiện

Thứ Sáu, 22/11/2024 | 01:00:09 GMT+7

Hơn 10% số nam quan hệ tình dục đồng giới đang sử dụng prep được ghi nhận có chia sẻ thuốc prep với người khác

25/05/2021 | 597 lượt xem

Hơn 10% nam giới có quan hệ tình dục đồng giới sử dụng PrEP để phòng ngừa HIV cho biết đã chia sẻ thuốc với người khác, theo một nghiên cứu được công bố trên JAMA Network Open.

“Khi PrEP tiếp tục được sử dụng phổ biến hơn, điều quan trọng là phải hiểu rõ hơn và giải quyết tình trạng chia sẻ thuốc PrEP, đồng thời nhấn mạnh thông điệp về việc giám sát việc sử dụng thuốc của nhà cung cấp theo thời gian vì lý do sức khỏe và an toàn”, Tiến sỹ Gordon Mansergh, nhà khoa học hành vi trong Ban Phòng chống HIV/AIDS của CDC cho hay.

Tiến sỹ Mansergh và các đồng nghiệp đã tiến hành phân tích cắt ngang các câu trả lời của một cuộc khảo sát ứng dụng dành cho thiết bị di động với 755 nam giới âm tính với HIV có quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Những người tham gia được hỏi liệu họ có đang tích cực sử dụng PrEP để ngăn ngừa HIV hay không và liệu họ có đang sử dụng chung thuốc với người khác hay không.

Tổng số 32,2% MSM cho biết họ đã sử dụng PrEP. Trong số những người được hỏi, 10,7% đã chia sẻ thuốc PrEP cho người khác. Chỉ 5% số người tham gia báo cáo sử dụng biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV theo tình huống - trước hoặc sau khi quan hệ tình dục. MSM từ 30 đến 39 tuổi có tỷ lệ sử dụng PrEP cao gấp hai lần MSM ở độ tuổi từ 40 trở lên.

\Tiến sỹ Mansergh cũng cho biết thêm: “Nam giới có quan hệ tình dục đồng giới và lưỡng tính nên nói chuyện với bác sỹ về PrEP và xác định xem bản thân có đủ điều kiện tham gia chương trình PrEP hay không theo hướng dẫn lâm sàng của CDC. Sau khi dùng thuốc PrEP, việc tuân thủ và giám sát liên tục của cơ sở điều trị là điều quan trọng để đảm bảo sức khỏe và tính hiệu quả của việc sử dụng thuốc”

Trong một số bài báo, các nhà nghiên cứu cho biết những nam giới trẻ tuổi và có học thức hơn có thể đặc biệt hưởng lợi từ các thông điệp truyền thông về những hậu quả tiềm tàng của việc dùng chung thuốc. Cần có nhiều các nghiên cứu hơn để hiểu lý do của việc chia sẻ thuốc PrEP và để giải quyết vấn đề này một cách trực tiếp hơn. Nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc hiểu rõ hơn bối cảnh của việc dùng chung thuốc PrEP, bao gồm cả việc chia sẻ thuốc do các rào cản có thể xảy ra khi tiếp cận việc điều trị, sự thuận tiện, tiết kiệm chi phí và không nhận thức được các hậu quả có thể xảy ra.

 

Thu Thủy