Đó là hội thảo được tổ chức trong chuỗi các hội thảo tại Sống trọn vẹn tổ chức tại Hồ Chí Minh 30/11/2024 vừa qua.
Đó là hội thảo được tổ chức trong chuỗi các hội thảo tại Sống trọn vẹn tổ chức tại Hồ Chí Minh 30/11/2024 vừa qua.
Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia trong nước, quốc tế và các nhóm cộng đồng. Hội thảo "Hướng tới xã hội hóa chương trình PrEP" được tổ chức với mục tiêu thảo luận về nhu cầu và tiềm năng triển khai các chương trình PrEP thu phí một phần và PrEP thương mại tại Việt Nam. Sự kiện sẽ tập trung vào việc phân tích các thuận lợi, khó khăn, và rào cản trong quá trình thí điểm và mở rộng chương trình, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo sự tiếp cận công bằng và bền vững cho cộng đồng có nhu cầu. Hội thảo cũng tạo ra diễn đàn trao đổi kinh nghiệm và ý kiến giữa các nhà chuyên môn, tổ chức y tế và các bên liên quan, hướng tới xây dựng mô hình PrEP xã hội hóa hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Bs. Nguyễn Tân Thủ, đại diện phòng khám nhà mình chia sẻ tại Hội thảo
Việt Nam thực hiện thí điểm PrEP từ năm 2017 tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Hiện PrEP đã trở thành chương trình là một trong những giải pháp can thiệp dự phòng nhiễm HIV hiệu quả nhất cho các đối tượng nguy cơ caohữu hiệu, đặc biệt là nam quan hệ tình dục đồng giới. Chiến lược quốc gia nhằm kết thúc bệnh dịch AIDS vào năm 2030 đã đề cập đến các mục tiêu của chương trình PrEP vào năm 2030. Các mô hình và quy trình cung cấp dịch vụ của từng mô hình đã được Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. Hướng dẫn triển khai PrEP thường xuyên liên tục được Bộ Y tế cập nhật theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới. PrEP là một can thiệp được đưa vào kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS hằng năm tại các tỉnh/thành phố với các chỉ tiêu cụ thể. Sau thành công của mô hình thí điểm, từ năm 2019 đến nay, với sự hỗ trợ từ các dự án PEPFAR và dự án Quỹ Toàn cầu, Việt Nam đã mở rộng cung cấp dịch vụ PrEP tại 35 tỉnh/thành phố trên cả nước với 221 cơ sở. Các mô hình và nỗ lực triển khai đa dạng, đồng bộ, hiệu quả các mô hình về PrEP. Các mô hình cung cấp dịch vụ PrEP được đa dạng, gồm mô hình cố định tại cơ sở y tế, mô hình lưu động tại các địa bàn, khu vực phù hợp với nhu cầu của quần thể đích. Đặc biệt, PrEP là một minh chứng cho sự tham gia cCác cơ sở ủa y tế tư nhân đã tích cực tham gia triển khai PrEP trong việc cung cấp các can thiệp dự phòng nhiễm HIV, bao gồm các , đặc biệt là các cơ sở y tế do chính cộng đồng quần thể đích thực hiện với 49/221 cơ sở y tế tư nhân. Tính đến 30/6/2024, tổng số khách hàng sử dụng ít nhất 1 lần dịch vụ PrEP là 111.159 khách hàng và tỷ lệ khách hàng duy trì điều trị HIV từ 3 tháng trở lên đạt hơn 70%. Trong số khách hàng hiện đang dùng PrEP có 93,1% đang uống PrEP hàng ngày và 6,9% đang uống PrEP theo tình huống; 80,6% người sử dụng PrEP thuộc nhóm MSM. Phần đa khách hàng sử dụng PrEP ở lứa tuổi từ 15- 49. Trong đó nhóm từ 20 – 39 chiếm chiếm 76,6%, nhóm từ 15- 19 tuổi chiếm 9,7%. Trong số 221 cơ sở cung cấp dịch vụ PrEP năm 2023, thì có 76,7% là các cơ sở y tế công lập, 23,3% là thuộc y tế tư nhân. Phần lớn các cơ sở y tế tư nhân cung cấp PrEP là do người thuộc nhóm quần thể đích làm chủ. Tuy nhiên lượng khách hàng sử dụng PrEP tại các cơ sở y tế tư nhân chiếm 48% tổng số khách hàng PrEP.
Việt Nam đã được Tổ chức y tế thế giới đánh giá là quốc gia đi đầu trong việc áp dụng các khuyến cáo mới vào chương trình phòng, chống HIV/AIDS HIV quốc gia. Hệ thống các văn bản, hướng dẫn quốc gia, tài liệu tập huấn cũng đã được xây dựng và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu đa dạng của cộng đồng trong phòng chống HIV/AIDS, đáp ứng với bối cảnh dịch có nhiều thay đổi và các nội chuyên môn, kỹ thuật thường xuyên được cập nhật theo các khuyến cáo của WHO. Năm 2023 Việt Nam trở thành nước dẫn đầu Châu Á – TBD về số người điều trị PrEP.
Ngoài các kết quả đã đạt được ra, để hướng đến sự bền vững cho công tác điều trị Dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức như: (1) Kích cỡ quần thể nguy cơ cao (MSM, chuyển giới) có xu hướng tăng nhanh , đòi hỏi có kế hoạch phù hợp và có đủ nguồn lực để cung cấp dịch vụ và duy trì tuân thủ điều trị PrEP. (2) Kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn là rào cản lớn trong việc tiếp cận các nhóm nguy cơ cao, đặc biệt là với nhóm . Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với MSM, kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS vẫn còn nặng nề, gồm cả kỳ thị từ cộng đồng, xã hội bên ngoài và tự kỳ kì thị trong cộng đồng nguy cơ cao. Tự kKỳ thị là một rào cản dẫn đến không sẵn sàng bộc lộ hành vi nguy cơ và ngại tiếp cận với các dịch vụ can thiệp dự phòng nhiễm HIV, sử dụng bao gồm PrEP. Bộc lộ hành vi nguy cơ và bản dạng giới của nhóm vị thành niên dưới 18 tuổi cũng là rào cản rất lớn. Quần thể nguy cơ cao phần lớn là “ẩn danh”, rất khó tiếp cận. Bên cạnh đó, nhận thức về PrEP còn hạn chế, nhiều người chưa biết thông tin về PrEP hoặc hiểu sai về PrEP. (3) Khó khăn về tài chính: Hiện nay phần lớn các dịch vụ PrEP chủ yếu dựa vào tài trợ quốc tế thông qua các chương trình, dự án để cung cấp miễn phí thuốc ARV, xét nghiệm HIV, XN creatinin và sàng lọc giang mai. NSNN và BHYT chưa chi trả cho điều trị PrEP. Điều trị STIs có giá thành khá cao cũng là rào cản cho việc cung cấp các dịch vụ này cho khách hàng sử dụng PrEP. Các nguồn tài trợ cho phòng chống HIV/AIDS, trong đó có PrEP, đang giảm nhanh, cần có giải pháp tài chính bền vững để mở rộng và duy trì PrEP trong thời gian tới. (4) Độ bao phủ hạn chế, tỷ lệ bỏ điều trị cao: Hiện nay, diện bao phủ của PrEP mới đang triển khai ở 31/63 tỉnh, thành phố. Năm 2023, tỷ lệ MSM tham gia điều trị PrEP mới đạt 17,5%, còn rất xa so với mục tiêu đặt ra 30% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030. Tuân thủ và duy trì điều trị PrEP là một rào cản lớn đối với việc mở rộng PrEP bền vững và hiệu quả. Theo số liệu báo cáo từ Cục Phòng, chống HIV/AIDS thì tỷ lệ duy trì điều trị PrEP liên tục trong 3 tháng dao động 70- 75%. Có khoảng 22- 25% khách hàng ngừng sử dụng dịch vụ PrEP trong từng năm.
Với tình hình dịch HIV/AIDS đang tăng nhanh trong nhóm MSM, PrEP là một trong những giải pháp hiệu quả nhất để dự phòng lây nhiễm HIV cho các đối tượng có hành vi nguy cơ cao. Việc tiếp tục mở rộng triển khai PrEP bền vững là rất cần thiết để nhằm góp phần kết thúc bệnh dịch AIDS vào năm 2030. Để mở rộng và đảm bảo bền vững chương trình PrEP trong bối cảnh các nguồn tài trợ hỗ của các tổ chức quốc tế bị cắt giảm, nâng cao nhận thức về PrEP đối với các đối tượng đích hơn nữa, mở nhanh dịch vụ ở những tỉnh/TP có tỷ lệ lây nhiễm trong nhóm MSM cao đặc biệt tại những tỉnh không có dự án hỗ trợ, thu hút được nhiều khách hàng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV vào điều trị PrEP, kết nối tốt hơn nữa giữa các nhóm cộng đồng và cơ sở cung cấp dịch vụ PrEP, duy trì tỷ lệ điều trị cao, sàng lọc và đưa được nhiều khách hàng bị đồng nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, viêm gan vi rút B, C đến các chuyên khoa liên quan để được điều trị kịp thời cần triển khai một số giải pháp như: Đa dạng các hoạt động truyền thông tạo cầu phù hợp với quần thể đích; phối hợp với Bộ LĐTBXH, Bộ Giáo dục – Đào tạo, TW Đoàn TNCS HCM, Hội sinh viên… để tiếp cận người có nguy cơ cao nhiễm HIV, bao gồm cả nhóm khách hàng dưới 18 tuổi; Đa dạng mô hình cung cấp dịch vụ PrEP, lồng ghép tại cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm phù hợp với quần thể đích; Huy động sự tham gia của y tế tư nhân, bao gồm các cơ sở do quần thể đích thực hiện, trong cung cấp dịch vụ PrEP; Kiện toàn và tăng cường chất lượng các dịch vụ PrEP: Cập nhật khuyến cáo của WHO, TTKSBT về PrEP như các thuốc mới (PrEP uống, tiêm …), phác đồ mới, cách cách tiếp cận triển khai các mô hình mới.
Đại diện tổ chức PATH chia sẻ tại Hội thảo
Tọa đàm hướng tới sự bền vững của chương trình PrEP